Rượu vang luôn đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển của đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp. Người ta đã trồng nho tại nơi đây từ hơn 3000 năm trước công nguyên. Nhưng phải đến năm 1000 trước công nguyên nghề làm rượu vang mới bắt đầu phát triển. Ngày nay, Tây Ban Nha là quốc gia trồng nhiều nho nhất trên thế giới. Sản lượng rượu vang tại đây chỉ thua kém Pháp và Ý.
Mười bảy đặc khu hành chính của nước này đều sản xuất rượu không ít thì nhiều. Các vựa nho tập trung chủ yếu ở Castilla-La Mancha nhưng những loại rượu vang nổi tiếng nhất như Rias Baixas, Cava, Priorat, Sherry, Rueda, Toro, Ribera del Duero…thì đến từ Galicia, Catalonia, Andalucia, Castilla y Leon và Rioja.
Vị trí địa lý và khí hậu là yếu tốt then chốt khiến rượu vang Tây Ban Nha mang nhiều phong cách khác nhau. Sở hữu đa dạng các loại địa hình cũng như thời tiết. Từ vùng Galicia xanh mướt, mát mẻ, dãy núi Pyrenees phủ đầy tuyết trắng ở phía bắc, xuyên qua những cao nguyên miền trung khô cằn, đến vùng Andalucia đầy nắng và gió ở phương nam. Nước này trải dài trên 7 vĩ độ, vươn mình 800km từ Đại Tây Dương đến các biển vùng Địa Trung Hải. Giữa các đường bờ biển là những dãy núi, mỗi dãy lại có những ảnh hưởng nhất định đến địa hình và khí hậu của quốc gia này.
Trên các đỉnh núi và cao nguyên là những con sông, chúng không chỉ cung cấp nước cho các vựa nho Tây Ban Nha mà còn tác động đến thời tiết và đất trồng. Những “dòng sông rượu” nổi bật nhất tại Tây Ban Nha là Miño, Duero, Tajo, Guadiana và Ebro.
Các yếu tố địa lí nói trên khiến cho phong cách rượu vang Tây Ban Nha trở nên đa dạng, phong phú. Những vựa nho sống nơi khí hậu mát mẻ ở phía bắc và tây bắc cho ra loại rượu vang trắng thanh khiết, dịu nhẹ, điển hình là Rias Baixas và Txakoli. Những vùng khô nóng hơn thì tạo ra rượu vang đỏ với vị hoa quả khá đậm đà như Rioja, Ribera del Duero và Bierzo. Vùng gần Địa Trung Hải lại sở hữu các loại rượu vang đỏ có hương vị mãnh liệt hơn (ví dụ như Jumilla). Tại nơi này, giống nho sinh trưởng ở nơi cao hơn mực nước biển, nhờ độ ẩm và nhiệt độ thấp hơn, có thể làm ra loại vang đỏ thanh nhẹ và dòng vang trắng sủi bọt Cava.
Giống nho Tempranillo (tên khác là Cencibel, Tinto Fino và UII de Llebre) chiếm 20% diện tích trồng nho của Tây Ban Nha, được sử dụng để làm các loại rượu nổi tiếng nhất cả nước (trong đó có Rioja, Toro và Ribera del Duero). Giống nho Bobal, dù được ít người biết đến hơn nhưng cũng chiếm 7% diện tích trồng nho cả nước, tập trung ở miền đông Tây Ban Nha, xung quanh Valencia, Manchuela và nhất là Uitiel-Requena. Giống nho Garnacha cũng được ưa chuộng tại Tây Ban Nha nhờ cho quả nhiều, mọng nước với khả năng tạo cồn tốt. Loại nho này thích hợp cho vang rosé của Navarra, nhưng tốt nhất là kết hợp với nho Tempranillo và Monastrell.
Khá ngạc nhiên là giống nho ít được biết đến Airen lại được trồng nhiều nhất tại Tây Ban Nha. Nho trắng Airen cho năng suất cao, có khả năng chịu hạn và chủ yếu được dùng để pha trộn với loại nho khác. Giống nho Macabel (hay Viura) là nguyên liệu chính để làm cả rượu vang Cava sủi bọt và không sủi bọt. Giống nho Palomino, thường được dùng riêng cho nhãn rượu Sherry và đôi khi phục vụ để làm các loại vang bàn. Trong khi đó, giống nho Albario chỉ được trồng ở vùng Tây Bắc được sử dụng để làm dòng vang nổi tiếng Rias Bixas.
Các giống nho ngoại như Cabernet Sauvignon, Syrah, Chardonnay và Sauvignon Blac đang ngày càng được yêu thích ở Tây Ban Nha và chiếm một diện tích đáng kể.
Trong vài thập kỉ trở lại đây, ngành rượu vang Tây Ban Nha đã có những bước hiện đại hóa đáng kể. Công nghệ tân tiến thế chỗ những phương thức thủ công truyền thống, mang lại những cải thiện đáng kể về chất lượng và độ tin cậy. Sự hiện đại hóa này còn được phản ánh thông qua động thái của chính phủ trong việc đưa ra các tiêu chuẩn rượu vang quốc gia.